Thứ Năm, 29 tháng 10, 2009

SƠ LƯỢC VỀ KIẾN THỨC - và sự tác động đến mọi mặt đời sống con người của Phong Thủy










Bất động sản, một thứ tài sản bất động của mọi người có tác động, ảnh hưởng đến cuộc sống của con người không riêng gì góc độ kinh tế vật chất, mà bất động sản của con người đôi khi và cũng có thể là thường xuyên ảnh hưởng đến sự sống của con người về góc độ tư tưởng, tư duy, hạnh phúc, sức khoẻ,công danh sự nghiệp, nếu gia chủ thường ngày sinh hoạt ăn ở tại bản địa: bất động sản của mình.


Từ cổ xưa, người Trung Hoa đã có những phương thức tính toán, lựa chọn địa thế, sắp đặt hình thế, sắp đặt phong thuỷ cho bất động sản của họ. Với mục đích phục vụ nhu cầu sức khoẻ, tâm linh, uy thế của bất động sản ( nhất là nơi họ thường xuyên sinh sống ăn ở ), đạt hiệu quả tốt do sự ảnh hưởng của bất động sản đến con người.



Nhà ở, vốn là bất động sản của con người ở mọi thời đại, mà con người luôn luôn phải coi trọng, thận trọng.


Nhà ở là một phần không thể thiếu với sự sống con người, dù người sở hữu bất động sản thuộc vào bất cứ dạng người nào, thì nhà ở vẫn chi phối tới sự sống con người về rất nhiều góc độ.

Một người bất kỳ nào đó đều không thể không có nhu cầu nhà ở. Người có học thức cao, và hiểu biết sâu rộng thâm thuý về lĩnh vực thiết kế, sắp đặt phong thuỷ về xây dựng, trang chí nội ngoại thất, thường là những người thành đạt trong sự nghiệp.


Ảnh hưởng của sự sắp đặt phong thuỷ nhà ở không những tác động đến sức khoẻ con người sống và làm việc tại căn nhà đã được sắp đặt phong thuỷ kỹ lưỡng theo từng tuổi của con người tính toán theo thuật phong thuỷ của Trung Hoa cổ đại, cũng như thuật phong thuỷ của thời hiện đại ngày nay.


( Phong thuỷ ) hai ngôn từ phản ánh về khí và nước mà dân thiết kế xây dựng nói chung, và các bực thầy chuyên khoa phong thuỷ nói riêng. Có giá trị thực tế hữu hiệu đến sự sống con người, nếu người xắp đặt, thiết kế phong thuỷ khéo léo ứng dụng thuật học này phục vụ cuộc sống thuận lợi tốt lành tại những nơi con người thường ăn ở sinh hoạt, hay làm việc.


Phong thuỷ phân ra làm 3 thể loại ảnh hưởng tới sự sống con người:


1 - Ảnh hưởng tới phương khí điện năng từ trường của trái đất, xung hợp với điện năng sinh học của riêng cá nhân từng con người khác nhau, luôn tác động chi phối tới vấn đề sức khoẻ.


2 - Ảnh hưởng tới cảnh quan, gây tác động đến tinh thần và chi giác của bản chất yêu thích, tuỳ theo từng giới tính của từng người.


3 - Ảnh hưởng tới tâm linh. Mà đã ảnh hưởng tới tâm linh con người thì vốn tác động đến rất nhiều góc độ ảnh hưởng tới sự sinh tồn và phát triển của con người. Từ trí tuệ, cho đến sức khoẻ, rồi hình thể, phúc hoạ…v…v…


Thuật phong thuỷ của từng thời đại vốn phát triển theo văn hoá tiến triển, rồi ảnh hưởng địa chất, địa hình, địa khí, thiên khí của từng vùng đất, của từng sắc tộc của con người bản địa.


Thuật thiết lập sắp đặt phong thuỷ của từng thời đại đều khác nhau, dựa trên một quy luật, một công thức tính toán chung theo chiết học phương đông. Trong đó ảnh hưởng nặng nhất là văn hoá ngôn ngữ của nguyên lý biến dịch, trong kinh dịch, mang nguồn gốc xuất phát từ đất nước trung hoa cổ đại.


Cách thiết lập xắp đặt phong thuỷ của thời thượng cổ và thời đại ngày nay khác nhau rất nhiều vì địa thế đất, rồi quan niệm về văn hoá tôn giáo, kiến thức về văn hoá, kiến thức về tâm linh, tác động của sự thay đổi môi trường sinh thái những khu vực lân cận, rồi khí mạch dưới lòng đất, thiên khí trên trời bị ô nhiễm, tỉ lệ thực vật của rừng núi bị khai phá ảnh hưởng tới môi trường động vật sống chung với môi trường của con người cũng tác động đến vấn đề phong thuỷ nhà ở của con người.


Ví dụ:


một vườn hoa có ong bướm ghé thăm, chim muông ca hát tạo cho tư tưởng của con người sảng khoái, cuộc sống tươi vui. Thời nay đã không còn được như thời cổ xưa. Những khu vườn cây trái dù có được mọc lên tạo cảnh quan, nhưng không có nhiều chim muông ong bướm sinh động trong tư tưởng của con người. những phong thuỷ thiết lập vườn tược không còn được nhiều hiệu quả như thời cổ xưa.


Rồi khí mạch, thuỷ mạch dưới lòng đất không còn được phong phú nguyên trạng theo sự tính toán như trước của cổ nhân, do những công trình ngầm, rồi nhà cao tầng có móng quá sâu cũng chặn ngang những thuỷ mạch, khí mạch dưới lòng đất, vốn là những con đường, xa lộ cao tốc lưu thông qua lại của những linh hồn con người ở cõi tâm linh, thường di chuyển dưới lòng đất. ( Bởi vong hồn con người, nếu ban ngày di chuyển trên mặt đất sẽ bị ánh nắng mặt trời làm suy giảm năng lượng điện khí âm tính ). Khiến những cách tính toán của thời cổ xưa về thuật phong thuỷ thiết lập, dựa trên thuyết lý đất sinh khí, đất linh khí, đã bị sai lệc không mấy còn áp dụng được với địa thế thời hiện tại.


Việc linh khí, sinh khí của đất nhà ở bị suy giảm đồng nghĩa với việc tư duy con người 50% được thế giới tâm linh tác động cũng bị suy giảm. Trí tuệ của người ở trên những mảnh đất linh khí tốt, hiện tại đã không còn được bao nhiêu. Nên việc thiết lập phong thuỷ cho nhà ở thời hiện tại, bắt buộc không thể áp dụng khuôn thước những sách cổ lưu truyền, mà phải dựa vào những yếu tố phát triển nâng cấp khoa phong thuỷ với một phương thức mới để thích hợp với hoàn cảnh của thời hiện tại.






Đức Minh


Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông


http://thanhocphuongdong.com











Phương pháp ĐÓN NHẬN PHÁP LỰC ( công năng - Ngoại cảm dưỡng sinh chữa bệnh )

.




Đức Minh chào cả nhà !


Qua 20 năm khổ cực nghiên cứu tu luyện, bộ môn khoa học tâm linh. Đức Minh nay đã đứng trên đỉnh cao của pháp thuật, và đã có được một số môn đệ theo học môn phái Thần Học Phương Đông do Đức Minh sáng lập ra, với một số lượng đáng kể, ở rải rác khắp mọi nơi trên địa cầu, như ở mỹ, canada, nga, hàn, tiệp, cùng một số nước khác.



Nhưng hiện tại Đức Minh bắt buộc phải chấp nhận từ bỏ tất cả, từ bỏ mọi vấn đề, mọi công việc, mọi ân huệ, quyền lực, công năng, tài lộc của tôn giáo : Thánh đạo đất Việt đã ban phát cho Đức Minh. Để Đức Minh có thể sinh sống tồn tại mà phát dương Thánh đạo của đất Việt.


Nhưng để loại bỏ triệt để được lũ vong hồn yêu ma quỷ quái đang lộn sòng, đang đội lốt bóng Thánh của Thánh đạo đất Việt, để phá đạo hại đời, để tranh dành quyền lực ở cõi tâm linh hiện tại, mà đã gây ra bao tội ác, đã gây ra bao họa hại, tệ nạn, cho xã hội dương trần, mà những người Việt và những người gốc Việt đang sinh sống và thừa hưởng tâm linh, thừa hưởng những sự chi phối từ cõi tâm linh của tiên tổ giống nòi .


Không phải Đức Minh mang tư tưởng giáo lý quá hà khắc về đạo đức Thánh thiện. Để rồi bản thân hành động chẳng khác gì tử vì đạo.


Mà trước khi chấp nhận hành động chẳng khác gì tự sát ( ôm bom cùng chết chung với ác ma ngã quỷ ), Đức Minh đã suy nghĩ, đắn đo, cân nhắc rất nhiều, nhưng không thể tìm ra được một giải pháp nào tốt hơn việc Đức Minh từ bỏ tôn giáo Đạo Thánh.


( nhẩy ra khỏi thế bị kẹt giữa hai làn đạn, do hai thế lực âm binh đang tranh dành quyền lực về tôn giáo tại đất Việt, mà gây ra bao tệ nạn, gây ra bao họa hại cho xã hội nhân gian ).


Bởi trong giờ phút này Đức Minh làm vậy thì sẽ có lợi cho đạo, có lợi cho đời, có lợi cho nhân loại nói chung và người Việt nói riêng. Mà trong đó có những người Đức Minh thương yêu, đó là : ( người vợ cùng hai đứa con thơ, và thêm nữa là anh sinh chị đẻ của Đức Minh ).


Đức Minh từ bỏ đạo Thánh, từ bỏ căn cơ số mệnh là Thanh đồng đạo lính, của Thánh đạo đất Việt, là từ bỏ tài lộc, từ bỏ công danh sự nghiệp mà Đức Minh đã mất 20 năm nghiên cứu tu luyện mới có được.


Đức Minh đã đầu tư một phần ba đời người cho sự nghiệp nghiên cứu, tu luyện theo đạo Thánh, mà đến giờ vì để diệt tà trừ quỷ, để thanh lọc và quy chuẩn tâm linh, quy chuẩn đạo đức nhân tính Thánh thiện trong đạo Thánh, mà phải chấp nhận vứt bỏ tất cả.


Nhưng sự từ bỏ Thánh Đạo của Đức Minh đây không phải là sự chấp nhận thua cuộc ở trận chiến sát quỷ trừ tà trong nội bộ tôn giáo, Trận chiến của âm và dương, của chính và tà, của Thánh Thần đối kháng bao đời từ sưa đến nay với yêu ma quỷ quái hại người.


Mà Đức Minh đã từ bỏ toàn bộ Pháp lực, quyền lực của bản thân được vua cha Ngọc Đế ban phát, được đức đại vương Trần Hưng Đạo chao cho binh quyền của Thánh đạo để làm việc, phát dương đạo pháp chính thống của đất Việt .


Đức Minh giờ lại phải đem đi ban tặng, chao hết cho toàn thể những người đồng đạo đang cần tới công năng Pháp lực của Đức Minh, đang suy tôn đạo đức Thánh thiện của đạo Thánh đất Việt. Những người cùng Đức Minh thanh lọc, loại trừ những thứ đồng ma, những loại vong tà ác quỷ hại người. ( mà không hề giữ lại Pháp lực quyền năng, vốn là tài sản vô giá của cá nhân, là lưng vốn, là những thế võ để hộ thân, để tồn tại sinh sống ).


Chỉ vì tử chiến với lũ ác ma ngã quỷ.


Thực tế pháp lực của Đức Minh không hề mất đi sau khi Đức Minh từ bỏ tôn giáo, từ bỏ quyền lực, Pháp lực. Mà việc từ bỏ này là một hình thức từ chức, một hình thức giải ngũ, chao lại binh quyền mà Đức Minh đã bao năm phấn đấu tu luyện như cảnh một người lính trong quân đội, được thăng cấp theo công trạng với đạo Thánh, mới được Thánh đạo ban cho phép mầu, ban cho quyền lực của Thánh Đạo.


Để Đức Minh có khả năng phục chúng, mà chỉ đường giắt lối, dìu giắt chăm họ tu luyện theo giáo Lý Thánh thiện nhân từ, mà thừa hưởng tâm linh phép mầu của Thánh Đạo, đến được đích của cuộc sống hạnh phúc - an khang - thịnh vượng.


Và việc Đức Minh từ bỏ đạo Thánh ( Giải ngũ ) này, hoàn toàn Không Phải là chốn chạy, không hề sai với tôn chỉ lề luật của đạo Thánh, lề luật mà mỗi Thanh Đồng đạo lính đều luôn phải chấp nhận tuyệt đối tuân thủ. Và đối với đức Minh cũng không ngoại lệ.


Lý do việc từ bỏ Thánh đạo của Đức Minh, là cách, là phương pháp Đức Minh loại bỏ những vong ma tà quỷ đang đội lốt bóng Thánh cai đầu đồng nắm bản mệnh của Đức Minh, từ trước đến nay đã lợi dụng tôn giáo mà tắc quái, hành hạ đầy đọa Đức Minh chăm ngàn nỗi khổ.


Vong tà ngã quỷ sẽ không còn cái cớ, không còn cơ hội để lợi dụng lề luật của tôn giáo Thánh đạo, mà chi phối hành khiến, gây họa hại khổ nạn đầy đọa Đức Minh.


Từ trước đến nay Đức Minh càng tài bao nhiêu, càng giỏi bao nhiêu, càng nắm giữ trọng trách và quyền lực trong đạo Thánh nhiều bao nhiêu, thì càng bị lũ vong hồn thất đức đội lốt bóng Thánh này, hành hạ đầy đọa Đức Minh nhiều bấy nhiêu. Để ép Đức Minh phải khiếp sợ, mà phải chấp nhận phục vụ mục đích tranh đoạt quyền lực, trong tín ngưỡng con người của ác ma đội lốt bóng Thánh.


Chỉ vì Đức Minh không chấp nhận bản chất độc ác của vong, bản chất thất đức, suy tôn lẽ sống kiểu để đạt được mục đích mà bắt chấp tất cả của vong : Ham muốn và hướng theo đường hướng của những người làm chính trị.


Mà với tư tưởng và lẽ sống cùng những việc làm hành động của những người làm chính trị, thì luôn đối lập với tư tưởng Thánh thiện nhân từ.


Bởi muốn tranh dành quyền lực, thì không thể nhân từ Thánh thiện được. Đó là định luật trong lẽ sống của nhân loại từ thượng cổ đến ngày nay.


Chính vì vậy vong hồn đội lốt bóng Thánh cai đầu đồng nắm bản mệnh của Đức Minh ( vốn là vong hồn người thân trong dòng họ ) ứng theo căn cơ, đã hành khiến đầy đọa Đức Minh một cách thâm hiểm và tàn độc, mất hết nhân tính, chỉ vì sự phản kháng của Đức Minh, không chấp nhận tôn thờ những lãnh tụ tư tưởng mà vong suy tôn, theo lẽ sống của những người làm chính trị .


Vong ác tà này đã làm đủ trò để ép Đức Minh phải tôn kính những tấm gương làm chính trị mà vong ngưỡng mộ. Nhưng Đức Minh chỉ duy nhất suy tôn lẽ sống và bản chất đạo Đức Thánh thiện nhân từ của những vị Thánh mà nhân gian chăm họ suy tôn từ cổ sưa đến nay.


Suy tôn bản chất cao đẹp của đạo đức nhân tính Thánh thiện ( là tôn chỉ, là giáo lý, là tiêu chuẩn của một vị Thánh ). Chứ không chấp nhận suy tôn những kẻ tham lam quyền lực, và có được thành tựu quyền lực bằng những trò ác nhân, ác tính, sảo trá gian điêu, bịp bợm.





Ví Dụ :


Đức Minh suy tôn tấm gương Thánh thiện là Đức Đại Vương Trần Hưng Đạo, ngài có thừa tài năng và chí tuệ, có thừa khả năng thực lực, và đầy đủ cơ hội để có thể cướp được ngôi Vua, có thể rửa hận trả thù. Nhưng ngài đã không tham lam quyền lực, mà dụng binh cướp lấy ngôi vua như bao vị quân vương vẫn từng hành động.


Ngài đã dứt bỏ thù hận vì muốn nhân gian chăm họ đất Việt được an lành, tránh đi nạn binh đao nội chiến cho chăm họ.


Đức độ nhân tính Thánh thiện của ngài đã khiến quân vương đương thời lúc đó phải kính phục, quy phục, mà suy tôn ngài là Đức Đại Vương, là quốc phụ ( có nghĩa là người cha của đất Việt ) là tiết chế quốc công ( có nghĩa là người có công và có khả năng, thực lực, đức độ, điều tiết chế phục được chăm họ đất Việt ).


Đức Minh cũng như Nhân gian chăm họ suy tôn phụng kính ngài, ở góc độ đạo đức nhân tính : Thánh thiện nhân từ, chứ không phải vì tài năng và công trạng.






NHẬP PHÁP :


Để có được pháp lực công năng ngoại cảm dưỡng sinh chữa bệnh của Đức Minh, đối với những lương y bác sỹ và những nhà dưỡng sinh chữa bệnh, Thì người đón nhận pháp lực cần phải tế lễ tại đền thờ, hoặc điện thờ, hoặc ban thờ tự lập tại gia. ( Thờ vua cha Ngọc Đế, hoặc Đức đại Vương Trần Hưng Đạo ).


Để xin tới đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế ( cổ Phật Ngọc Đế đức Vua Cha ) Ban Phép, và Đức Đại Vương Trần Hưng Đạo ban quyền giúp cho được thừa hưởng pháp lực của ( Đức Minh : Pháp chủ Thần Học Phương Đông ). Một cách linh ứng hiệu quả.






NGHI LỄ CÚNG TẾ ĐỂ XIN THỪA HƯỞNG ĐƯỢC PHÁP LỰC CÔNG NĂNG NGOẠI CẢM CỦA PHÁP CHỦ : THẦN HỌC PHƯƠNG ĐÔNG - ( ĐỨC MINH ) .


- Lễ gồm có : hoa, trái, tiền, vàng : ( vàng đại thiếc ) + lễ mặn : ( rượu thịt ).


- Mã : gồm có ngựa - hia ( giầy ) - mão ( mũ ) - Y Phục : ( quần áo ).
Dâng lễ tới vua cha Ngọc Đế và Đức Đại Vương Trần Hưng Đạo đều như nhau.
( ngày tiệc cũng trùng vào một ngày là : 20 tháng 8 âm lịch hàng năm ).








Ở Miền Nam :

( sài gòn ) - thì có thể làm tại chùa Phước Hải, thờ vua cha Ngọc Hoàng, nằm tại phố Mai Thị Lựu, gần cầu Điện Biên Phủ.


Hoặc đền thờ Trần Hưng Đạo Đại Vương tại đường Võ Thị Sáu, gần công viên Lê Văn Tám.








Ở Miền Bắc :

Có thể làm lễ tại đền Đậu An, thờ Vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế, tại tỉnh Hưng Yên.
Hoặc đền thờ Đức Đại Vương Trần Hưng đạo, tại Kiếp Bạc.










Ở Hà Nội :

Có thể làm lễ tại đền Ngọc Sơn, tại Hồ Gươm, nằm ở trung tâm thành phố. Thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo.






TƯ THẾ - CUNG CÁCH KHI TẾ LỄ - ĐỂ XIN PHÁP LỰC :


Người làm lễ cần ngồi với tư thế bán kiết già, chân phải đặt lên chân trái, hai tay chắp trước ngực, tư thế lưng thẳng, để năng lượng của Đức Thánh truy cập vào cơ thể được dễ thuận lợi. Phép mầu linh ứng được triệt để.


Khi ngồi bán kiết già thì hãy thiền, vô thức. ( loại bỏ tất cả mọi tạp nhiễm trong hệ tư tưởng cương quyết như loại bỏ kẻ thù, thì sẽ đạt tới tốc độ thời gian, và cảnh giới vô thức được triệt để ). Để việc đón nhận pháp lực công năng của Pháp chủ Đức Minh, được ban Phép của Vua cha Ngọc Đế, được binh quyền của Đức Đại Vương ban quyền trợ giúp cho được triệt để, để có được công năng ngoại cảm.




LỜI PHÁT NGUYỆN :


- Con tên là :................................................


- Tuổi :.................................................


- Ở địa chỉ :................................................

Có lễ mọn tâm thành xin dâng lên : .............................Thiếu đâu trên cho làm đủ, vơi đâu trên cho làm đầy. Mà chứng cho tâm thành của con.

- Xin tới cổ Phật Ngọc Đế Đức Vua Cha, , Hãy ban Phép cho con.


- Xin tới Đức Đại Vương Trần Hưng Đạo, và binh quyền của Trần Triều, cùng toàn thể những linh hồn Thánh thiện của Thánh Đạo đất Việt, hãy ban quyền cho con.


Giúp con được phép đón nhận và sử dụng được Pháp lực, của Pháp Chủ Thần Học Phương Đông : Đức Minh.


Để con có được khả năng, công năng Ngoại cảm, mà chữa bệnh cứu người bằng pháp Dụng Thần này, linh ứng được sát thực hiệu quả.


Con xin Tới : Đức Thần Y Hải Thượng, Đức Thần y Tuệ Tĩnh, cùng các Vị sư tổ của Nghành y, hãy linh ứng dự báo vào thân xác con tình trạng sát thực cơ địa của người tên là :......................................


Ở Địa chỉ :......................................Và :


- Xin Hãy kích thích hệ thống Kinh :.....................của người này.


- Xin Hãy kích thích hệ thống mạch :....................của người này.


- Xin Hãy kích thích hệ thống tuyến :....................của người này.


- Xin Hãy kích thích huyệt đạo :......................của người này, hoạt động được thông thoáng, truy cập năng lượng được hiệu quả, điều tiết âm dương được cân bằng, giúp cho việc dưỡng sinh chữa bệnh cho người này được hiệu quả sát thực.


Và sau khi phát nguyện ước cầu, thì người xin thừa hưởng Pháp lực ngoại cảm dưỡng sinh chữa bệnh của Đức Minh, hãy ngồi tịnh tâm chờ đợi sự linh ứng từ cõi tâm linh một cách khao khát. Sẽ Thấy rõ sự linh ứng vào cơ thể của bản thân.


Phía người bệnh được chữa bằng phép sử dụng ngoại cảm để dưỡng sinh chữa bệnh, và người là Lương Y ( bác sỹ chữa bệnh ) sẽ đồng nhất một thể trạng. Tình trạng cơ Địa.


Hệ thống thần kinh của người bệnh khởi động và truy cập năng lượng từ vũ trụ vào cơ thể ra sao, thì cơ thể của Lương y ( bác sỹ ) sử dụng ngoại cảm để chữa bệnh cho họ cũng sẽ hoạt động y hệt là vậy. Cảm nhận sẽ thực sự rõ và đồng nhất một thể trạng từ cả hai phía, giữa người bệnh và người chữa bệnh, nếu sự vô thức của tinh thần ở cả hai người luôn đạt đúng chuẩn mực.


Để chữa bệnh bằng ngoại cảm người Lương Y bác sỹ hay nhà dưỡng sinh sau khi được báo ứng tình trạng cơ địa của bệnh nhân vào cơ thể mình để theo dõi điều tiết, thì hãy phát nguyện đến đức Thần y Hải Thượng linh ứng, kích thích điều tiết hệ thần Kinh của người bệnh, theo phác đồ điều trị mà bản thân đưa ra.


Sau 9 lần sử dụng pháp lực của Pháp chủ Đức Minh, thì pháp lực của bản thân người tu luyện sẽ tự phát công năng, Sẽ không cần phải xin tới pháp lực của pháp chủ Đức Minh nữa.


Và nhớ đừng bao giờ quên xin tới pháp lực của pháp chủ Đức Minh khi mới nhập pháp ngoại cảm của Thần học Phương Đông. Bởi Phương pháp sử dụng ngoại cảm để dưỡng sinh chữa bệnh này là do vua cha Ngọc Đế ban phép, Đức Đại Vương ban quyền, cho cá nhân Đức Minh.


( Nếu ai sử dụng pháp này mà không có lời xin tới Đức Minh ), thì chẳng khác gì là ăn chộm pháp. ( Sẽ bị phạt khi sử dụng pháp ).


Pháp là phương pháp. Lực là tha lực ( là sức mạnh tâm linh mà Đức Minh được thừa hưởng từ quyền Trời Phép Phật ).


Nói rõ hơn là : Pháp sử dụng ngoại cảm để chữa bệnh này là tài lộc Trời ban cho cá nhân Đức Minh. Là phần thưởng do Đức Minh đã làm việc công đức giúp đời, giúp ích cho Thiên Địa.


Nay Đức Minh mang pháp lực của bản thân, ban tặng cho Bách Gia chăm họ Vì sự nghiệp phát dương Thánh Đạo đất Việt . ( Để chứng minh về bản chất nhân tính Thánh thiện của Đức Minh với thiên địa và chăm họ bách gia, vì đã noi theo những tấm gương Thánh thiện nhân từ của Thánh đạo Đất Việt. ( Đem hạnh phúc và quyền lợi đến với mọi người mà không ai phải trả giá hao tổn bất cứ gì ).


( kể cả khi Đức Minh không còn Thờ trời, không còn làm việc cho thiên địa, không còn quyền lực công danh lợi lộc nữa ) thì Đức Minh vẫn Không phụ ơn trời, bằng những việc làm người thực việc thực giúp đời. Mang quyền năng , ( Pháp Lực ) vốn là tài lộc Trời ban phát riêng cho Đức Minh, để chao tặng mọi người, chứ không ích kỷ sở hữu.


Bởi tư tưởng và hành động Thánh thiện không phải là những việc ích kỷ, không phải là những sự gian, điêu, sảo trá, bịp lừa, độc ác, tham lam, ích mình hại người, cậy mạnh hiếp yếu, cậy tài huênh hoang, xui khiến mọi người lao vào chỗ khốn khổ, chết tróc, bất nhân, bất nghĩa, bất lương, bất trung, bất hiếu, bất tín, bất Thánh thiện ................................








Lưu Ý:


Để có được Pháp Lực của pháp chủ Đức Minh, về ngoại cảm của Thần Học Phương Đông : dưỡng sinh chữa bệnh. Thì Người đón nhận pháp lực trước khi cầu Trời ban phép, để có thể đón nhận và sử dụng được pháp lực ngoại cảm của Đức Minh một cách an toàn và tiện lợi, cần Phải học và hiểu Biết rõ về Lý thuyết của Y học cổ truyền Phương Đông, chuyên khoa chữa bệnh không dùng thuốc. ( HỌC KIẾN THỨC VỀ KINH MẠCH QUA SÁCH CHÂM CỨU ). Cùng những loại sách về kiến thức y học cổ truyền Phương Đông. ( Y DỊCH ).


- Cần phải có hiểu biết về bệnh lý.


- Cần phải có kiến thức về âm dương và dòng chảy trên cơ thể con người, cùng lý thuyết tối thiểu về bộ môn Khí Công dưỡng sinh chữa bệnh.


Nếu kiến thức về dưỡng sinh chữa bệnh không dùng thuốc mà chưa đủ, và không hiểu. Đã vội vàng xin tới pháp lực ngoại cảm của Đức Minh, thì việc dụng pháp sẽ bị loạn Pháp.


Cõi tâm linh sẽ báo ứng vào cơ địa của người cầu xin Pháp lực , gây ra những sáo trộn bất lợi đến sức khỏe cho người sử dụng pháp lực của Đức Minh.


Và người đó sẽ bị báo bệnh lung tung vào cơ địa, để người dụng pháp bắt buộc phải học hỏi và giác ngộ những phương pháp và kiến thức chữa bệnh, theo đúng với lý thuyết của y học cổ truyền Phương Đông, ( bằng pháp dưỡng sinh của : Thần Học Phương Đông ) .


Khi Đã thừa hưởng được trọn vẹn Pháp lực của Đức Minh về khả năng, công Năng ngoại cảm. Thì người dụng pháp cần ăn ở đức độ, lấy tư tưởng Thánh thiện nhân từ làm lẽ sống. Lấy đức độ của bản thân để cứu người giúp đời. Mới có thể lưu giữ được pháp lực công năng ngoại cảm được lâu bền. Nếu không pháp lực sẽ tự mất đi .


Và tối kỵ nhất là làm những việc bất Thánh thiện, làm những việc ác, và sử dụng pháp lực ngoại cảm của Đức Minh để đi hại người. Thì báo ứng của nghiệp ác sẽ dập ngay vào đầu người tạo ra nghiệp ác đó.


Nếu Đức Minh Phát hiện ra bất cứ ai mà làm những việc thất đức hại người bằng công năng ngoại cảm của Đức Minh ban tặng. Thì dù đã từ bỏ Thánh đạo đất Việt, Đức Minh cũng sẽ có cách để Thu lại pháp lực của người đó. Và vĩnh viễn một đời người bị thu lại pháp lực này, sẽ không bao giờ có thể sử dụng được công năng ngoại cảm của bất cứ môn phái nào trong dưỡng sinh chữa bệnh.


Việc Thừa Hưởng Pháp lực của Đức Minh cần Phải có Đức tin vững chắc về tâm linh, và đạo đức Thánh thiện nhân từ, và có tâm chí làm việc phúc đức cứu người, thì mới có thể thừa hưởng được pháp lực của Đức Minh một cách trọn vẹn.


Những người theo đạo Thiên Chúa, đạo tin Lành, hay một đạo giáo nào khác, thì hãy dùng nghi lễ của tôn giáo mà mình suy tôn, để xin tới sức mạnh tâm linh của tôn giáo, linh ứng tới Pháp lực của Đức Minh ban tặng cho người có tâm, muốn thừa hưởng pháp lực. Bởi Thần Học không phải là tôn giáo, và không bó buộc ở tâm linh của bất cứ tôn giáo nào.


Chỉ cần làm đúng theo những sự chỉ dẫn trên, thì người cầu xin pháp lực của Đức Minh sẽ có được trọn vẹn Pháp Lực mà không cần Phải gặp Trực tiếp Đức Minh, mà vẫn đạt được mục đích Ý nguyện.


Vì Sự nghiệp cứu Người Giúp đời, Vì sự Đấu Tranh loại bỏ những hồn ma ác quỷ gây họa cho đời, gây hại đến đạo, mà Đức Minh đã Phải chấp Nhận một cái giá phải trả rất Đắt. Phải chấp nhận những khổ ải đau đớn về cả tinh thần lẫn thể xác suốt bao năm qua, mà vẫn luôn tranh đấu không dừng đến ngày Thành công quả, trên mọi hình thức và Đạo Lý.


Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông





Liên kết, lưu trữ, phòng sự cố :



http://chuabenhbangngoaicam.blogspot.com


http://thanhnien.easyvn.com/chuabenhbangngoaicam


http://blog.360.yahoo.com/ducminh939393

Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009

CHỮA BỆNH SUY TIM

Bài tập chữa bệnh suy tim


Khi bạn bị bệnh chức năng cơ tim suy yếu, dẫn đến nhiều triệu chứng như hẹp hay hở van tim, nhịp chậm, yếu, không đều, hay do thấp nhập cơ tim dẫn đến huyết áp bất ổn, vì hệ thần kinh chỉ đạo cơ tim bị phong thấp làm cho bế tắc, hoặc sai lệch hiệu lệnh chỉ đạo cơ năng. Bạn có thể sử dụng khí công dưỡng sinh để tự chữa bệnh cho chính mình. Nếu ai hợp với phương pháp thần học, thì việc tự chữa bệnh cho mình lại càng đơn giản và hiệu quả hơn.



Để bạn có thể điều khí trên cơ thể của chính mình, bạn cần tịnh tâm đến mức cảm nhận được cơ thể mình đang trong tình trạng nào. Muốn làm được điều này bạn cần dứt bỏ mọi tạp nhiễm trong tư tưởng, và tập trung hoàn toàn vào việc điều khí truy cập năng lượng vào cơ thể.



Trước hết bạn cần biết chính xác về đường kinh và mạch bạn cần khởi động, và dắt khí từ đâu để khai thông và ổn định những hệ thống thần kinh này. Để có những kiến thức đó, bạn hãy đọc qua sách về châm cứu.



Để việc chữa bệnh một cách chắc chắn về hiệu quả, bạn cần hiểu sơ qua về ngành khí công. Bộ môn khí công có nguồn gốc xuất phát từ tôn giáo, chẳng khác gì mấy với YOGA. Điều khác giữa khí công có xuất phát từ Trung Hoa với YOGA của Ấn Độ là góc độ tôn giáo, và tên gọi các điểm truy cập giao thoa năng lượng qua hệ tế bào thở ở mặt da, trên cơ thể con người.



YOGA xuất phát từ đạo phật ở Ấn Độ, lấy các luân xa làm điểm truy cập giao thoa năng lượng trong cơ thể con người với năng lượng ngoài vũ trụ để cân bằng năng lượng âm dương của con người.



Khí công xuất phát từ các đạo sỹ của Trung Hoa, vì đặc thù công việc và chuyên ngành tu luyện tiếp âm nhiều, nên phát sinh bộ môn khí công, và qua nhiều đời lưu truyền trên nhân gian thì sinh ra nhiều tông phái khác nhau. Những đạo sỹ chuyên bắt tà chữa bệnh thì luyện một kiểu, người học võ thì luyện một kiểu, vì luyện tập khí công không những có thể chữa bệnh mà còn để gia tăng nội lực, sức khỏe tột bực, những người tu luyện tới tầng cao còn có thể phát sinh giác quan trong chuyên nghành công việc, cũng như đời sống mưu cầu.



Việc chữa bệnh bằng phương pháp luyện tập khí công là hình thức hoàn thiện hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng. Bằng cách điều khí chạy trên hệ thống thần kinh trên cơ thể, và truy cập năng lượng khí điện mang tính âm hoặc dương, tùy thuộc theo nhu cầu cần thiết của cơ thể từ ngoài vũ trụ vào, để khai thông hoặc điều chỉnh âm dương cho lượng khí cân bằng.



Huyệt đạo chính của khí Công không có giao diện lớn như các luân xa của YOGA, nhưng lại nằm trên hệ thống kinh mạch và tác động chi phối tới cơ quan tạng phủ ở nhiều tính lý, theo lý thuyết của nền y học cổ truyền Trung Hoa, và ăn khớp với Kinh Dịch, mang nặng nền triết học hoàn thiện của phương đông.



Chính vì vậy bộ môn Nhân Điện khi phát sinh đã sử dụng luân xa làm chính, nhưng vẫn phải dùng hệ thống kinh mạch và huyệt đạo của y học cổ truyền Trung Hoa làm nền tảng, để phát triển và điều tiết năng lượng. vì bộ môn Nhân Điện có nguồn gốc từ YOGA + KHÍ CÔNG hợp lại mà thành.



Trong Y học cổ truyền Trung Hoa thì hệ thống đường kinh lạc ví như dòng suối dẫn năng lượng giao thoa với vũ trụ qua các huyệt đạo, từ các tế bào thở mặt da, chảy vào các mạch chính trên cơ thể, được ví như những dòng sông. Nếu âm dương trong cơ thể cân bằng thì đồng nghĩa với sự hoạt động hiệu quả và thông thoáng của hệ thống kinh mạch. Ngược lại, âm dương mất cân bằng, chức năng cơ thể bị sai lệc, thì là do những hệ thống thần kinh này bị bế tắc hay sai lệch chức năng, mới phát sinh sự mất cân bằng đó, dẫn đến bệnh tật .



Để chữa bệnh suy tim, các bạn hãy tập như sau:



Các bạn hãy vô thức vứt bỏ mọi tạp nhiễm trong đầu, và để an toàn và hiệu quả trong luyện tập, cần niệm khẩu quyết tâm pháp trong tư tưởng như sau:

( con xin vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế Độ mệnh cho con trong luyện tập dưỡng sinh chữa bệnh )





Bài tập này là để dưỡng sinh cho toàn bộ cơ thể trước khi tác động trực tiếp vào hệ thần kinh cơ tim:



Các bạn hãy tưởng tượng mình đang ngồi dưới ánh mặt trời, mặc dù bạn đang ngồi bất cứ nơi đâu, và ắnh sáng mặt trời do bạn tưởng tượng ra đó, thẩm thấu vào cơ thể của bạn, từ đầu thấm dần xuống toàn thân. Ánh sáng thẩm thấu đến đâu bạn sẽ cảm nhận thấy sự thông thoáng nhẹ nhõm tới đó, và nơi nào ánh sáng không thẩm thấu triệt để được thì nơi đó khí huyết của bạn vốn không lưu thông được bình thường, nói một cách khác bệnh do bế tắc từ đó mà ra.



Việc điều khí kích thích vào dệ thống thần kinh cơ tim thực tế rất dễ, nhưng định dạng nguyên nhân mất cân bằng trên cơ địa của chính mình cần có thời gian và kiến thức, mới triệt được tận gốc của bệnh được. Còn nếu ta không tìm hiểu gốc phát sinh sự mất cân bằng trên cơ thể, mà ta kích thích vào HTTKC tim có được hiệu quả bao nhiêu thì lại bị tái hồi sự bế tắc mất cân bằng trở lại bấy nhiêu, bởi gốc bệnh do tâm thận sai lệc, mà tâm thận lại do tâm thần chủ đạo.Nên điều này rất khó đối với người ít hiểu biết về y học cổ truyền trung hoa cùng chiết học phương đông.



Chính vì vậy tôi phải cho tập bài điều dưỡng toàn thân để khi phác đồ điều trị mà người luyện tập tự lựa chọn qua kiến thức của chính mình chưa chuẩn mực, thì bệnh cũng thuyên dảm từ từ bằng cách dưỡng sinh toàn cơ thể.



( có một số người bị mắc bệnh do số mệnh căn cơ, thì ngoài việc tập luyện dưỡng sinh chữa bệnh, uống thuốc, còn cần đến việc cầu cúng tôn giáo của gốc đạo do tiên tổ lưu truyền mới có hiệu quả cao ).





KÍCH THÍCH VÀO THẦN KINH CƠ TIM:



Để kích thích trực tiếp vào hệ thống thần kinh chỉ đạo cơ tim, các bạn hãy mở huyệt bách hội dắt năng lượng khí điện chạy dọc cột sống ( mạch đốc ) cả mạch trong lẫn ngoài cột sống tới huyệt đại trùy thì bơm khí từ đỉnh đầu xuống cho thật căng để năng lượng tỏa ra thẩm thấu ra trước ngực, kế tiếp là thân trụ, và thần đạo cũng vậy. Đến khi nào bạn thấy khí tràn vào khắp cơ tim và phổi toàn bộ vùng ngực thông thoáng thì dắt tiếp xuống mệnh môn và dẫn khí vào đan điền để khí tụ ở đan điền, bởi đan điền là bể khí điều hòa toàn bộ cơ thể.

Bước kế tiếp là tự kích thích sự hoạt động của kinh phế, kinh tâm, kinh tâm bào, kinh thận, kinh bàng quang cùng một lúc. Việc này chưa quen thì thấy rất khó vì phải định vị các đường kinh trên cơ thể mình, nhưng làm vài lần là ý thức sẽ hình thành và quen thuộc đối với các bạn ngay.

Khi kích thích các đường kinh, các bạn chỉ cần tưởng tượng những đường kinh đó rung dật, là các huyệt đạo trên những đường kinh đó sẽ tự mở để truy cập năng lượng vào cơ thể.




DƯỚI ĐÂY LÀ MỘT SỐ KIẾN THỨC VỀ Y HỌC CỔ TRUYỀN TRUNG HOA GIÚP CÁC BẠN THAM KHẢO ĐỂ LỰA CHON PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ RIÊNG VỀ BÊNH SUY TIM:



Đại cương

Tim suy mạn còn gọi là Suy tuần hoàn kinh diễn, là trạng thái cơ tim bị bệnh hoặc cơ năng của tim không điều hòa. Đây là biến chứng cuối cùng của tất cả các bệnh về tim, bệnh về động mạch phổi và một số bệnh toàn thân như Thận, Nội tiết.... YHCT xếp loại bệnh này vào loại Tâm Thận dương khí suy yếu. Trước đây người ta cho rằng bệnh ở tạng Tâm không thể dùng châm cứu chữa trị, thậm chí còn cấm dùng châm. Hiện nay, người ta nhận thấy châm cứu có khả năng cải thiện cơ năng của tim và đã góp phần giải quyết bệnh này.


Nguyên nhân

Chủ yếu do dương khí của Tâm và Thận suy. Dương Khí của Tâm suy yếu làm cho sự vận hành của máu bị trở trệ. Dương khí của Thận suy làm cho chức năng thu nạp khí kém, khí hóa thất thường, thủy thấp ngưng trệ, gây ra phù, hồi hộp...



Triệu chứng

Trên lâm sàng thường gặp hai loại sau:

1. Tâm dương (trái) suy: Tim hồi hộp, ngực đầy tức, hô hấp khó khăn, tinh thần mỏi mệt, uể oải, sắc mặt xanh tím, móng tay nhạt, ho khạc ra máu hoặc khạc ra đờm bọt có lẫn máu, màu rỉ sắt, sợ lạnh, tay chân mát, hay chóng mặt, ngủ không yên, ăn kém, chất lưỡi nhạt, mạch Tế Nhược.

2. Tâm phải suy, khí trệ huyết ứ: Tim hồi hộp, ngực đầy tức, khó thở, tĩnh mạch nở lớn, gan sưng to, không muốn ăn uống, muốn nôn, tiểu ít, toàn thân phù, móng tay tím, môi và chất lưỡi cũng có màu tím, mạch Trầm, Tế Sáp hoặc K ết.



Điều trị

TRANG 1 CHÂM CỨU ĐIỀU TRỊ: Alzheimer

ĐIỀU TRỊ THEO ĐÔNG Y Trên lâm sàng thường gặp các loại sau:

Do Can khí uất kết kèm đờm trệ: Dễ tức giận, Tâm phiền, uất ức, không · muốn nói, hông sườn đầy tức, đau, lưỡi bẩn, rêu lưỡi dầy, nhớt, mạch Hoạt.

ĐIỀU TRỊ: Sơ Can, lý khí, hoạt huyết, hoá đờm. Châm Bá hội, Tứ thần thông, Thái xung, Tam âm giao, Phong long. (Bá hội, Tứ thần thông khai khiếu, tỉnh thần, tăng trí nhớ; Thái xung sơ Can, giải uất; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long thấm thấp, hoá đờm). Châm lâu ngày, có thể thay đổi dùng các huyệt trên đầu sau đây: Thượng tinh, Tiền đỉnh, Hậu đỉnh, Cách du, Can du, Hồn môn, Tỳ du. Hoả thịnh dùng Hành gian thay Thái xung, thêm Hiệp khê. Huyết hư thêm Cách du, Can du; Tỳ hư thêm Túc tam lý ; Hông sườn đau thêm Chương môn. Can Thận âm hư kèm đờm trệ: Bệnh kéo dài, chóng mặt, đầu váng tê và rung · chân tay, trí nhớ giảm, chậm chạp, mắt không còn thần (dại), da mặt kém tươi, mồ hôi trộm, da khô, tức giận bất thường, run hoặc co rút cơ. Nặng hơn thì không đi lại được, có khả năng liệt nửa người, khó nói, lưỡi đỏ tối, rêu lưỡi trắng nhạt, mạch Tế Sác.

ĐIỀU TRỊ: Tư bổ Can Thận, hoạt huyết, hoá đờm. Can du, Thận du, Chí thất, Tứ thần thông, Bá hội, Tam âm giao, Phong long. (Can du, Thận du, Chí thất dưỡng Can Thận, chấn tinh, ích trí. Cứu Tứ thần thông, Bá hội dẫn âm lên tuỷ hải, khai khiếu, ích trí. Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long táo thấp, hoá đờm). Tỳ hư thêm Túc tam lý; Âm hư hoả vượng thêm Dũng tuyền; Đầu váng, chóng mặt thêm Phong trì; Họng khô, táo bón thêm Chiếu hải, Chi câu; Mắt mờ thêm Ấn đường. Mồ hôi trộm thêm Âm khích. Hay giận dữ thêm Hành gian. Tỳ Thận dương hư kèm đờm trệ: Di chuyển chậm, mất trí nhớ lẫn nhân · cách, nói khó, nặng hơn thì không nói được, không suy nghĩ gì được, nói lộn xộn, mất trí nhớ, tê chân tay, lưỡi tối nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Tế, Hoạt Tế, Sáp.

ĐIỀU TRỊ: Ôn Thận, kiện Tỳ, hoá đờm, tán ứ. Tỳ du, Thận du, Chí thất, Tứ thần thông, Bá hội, Tam âm giao, Phong long. (Tỳ du, Thận du, Chí thất ôn Thận, kiện Tỳ, tăng nguồn hoá sinh trí nhớ; Tứ thầnTRANG 2 thông, Bá hội đưa dương lên bể tuỷ, khai khiếu, ích trí; Tam âm giao hoạt huyết, hoá ứ; Phong long táo thấp, hoá đờm). Chóng mặt thêm Phong trì; Ù tai thêm Thính hội, Nhĩ môn; Mệt mỏi, thiếu sức thêm Túc tam lý; Mắt mờ thêm Ấn đường; Dễ tức giận thêm Hành gian. Tâm Tỳ đều hư: Lẫn lộn, không phân biệt được, buồn sầu, hay khóc, trầm tư, · nói khó, đi đứng chậm, tinh thần mệt mỏi, tự ra mồ hôi, không có sức, hồi hộp, sợ hãi, hơi thở ngắn, biếng ăn, lưới nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch Tế, Nhược.

ĐIỀU TRỊ: Dưỡng Tâm, kiện Tỳ, an thần, ích trí. Tâm du, Cách du, Tỳ du, Chí thất, Bá hội, Tứ thần thông. (Tâm du, Cách du, Tỳ du dưỡng Tâm Tỳ, tăng trí nhớ; Chí thất bổ tuỷ hải, tăng trí nhớ; Bá hội, Tứ thần thông dẫn khí lên tuỷ hải, khai khiếu, ích trí (tăng trí nhớ). Can dương thượng cang: Nhức đầu, chóng mặt, mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt, ngủ · không ngon giấc, ngủ hay mơ, lưỡi cứng, khó nói, tê tay chân, khó cử động miệng và mắt, liệt nửa người, lưỡi đỏ, rêu lưỡi trắng hoặc hơi vàng, nhờn, mạch Tế Sác.

ĐIỀU TRỊ: Bình can, tiềm dương, tỉnh thần, khai khiếu. Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì, Tam âm giao, Huyền chung. (Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì bình Can, tiềm dương, tỉnh thần, khai khiếu; Tam âm giao, Huyền chung tư âm chế dương, ích Can Thận, bình Can). Táo bón thêm Chiếu hải, Chi câu. Nước tiểu đỏ thêm Âm lăng tuyền; Hông sườn đau thêm Thái xung; Bứt rứt không yên thêm Đại lăng; Mặt đỏ, mắt đỏ, bứt rứt không yên thêm Hành gian; Khó ngủ, ngủ hay mơ thêm Đại lăng). Tâm hoả vượng: Đau đầu, bứt rứt, mặt đỏ, môi đỏ, khó ngủ, ngủ hay mơ, nói · năng lẫn lộn, nói cười huyên thuyên, lo âu, không phân biệt thân quen, nước tiểu vàng, táo bón, lưỡi đỏ, nhất là đầu lưỡi, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Sác.


ĐIỀU TRỊ: Thanh Tâm, tả hoả, an thần. Thông lý, Đại lăng, Bá hội, Tứ thần thông. (Thông lý, Đại lăng thanh Tâm, tả hoả, trọng trấn, an thần; Bá hội, Tứ thần thông an thần, khai khiếu). Đầu đau thêm Đầu duy, Thái dương, Ấn đường (Thông thiên). Bứt rứt nhiều, khó ngủ, hay mơ châm ra máu Lao cung, Thiếu xung. Nói xàm, cử động vô ý thức châm ra máu Lao cung và Thiếu xung. Suy nghĩ lung tung, lo âu châm ra máu Ẩn bạch. Nước tiểu vàng thêm Trung cực. Miệng và họng khô thêm Chiếu hải. Đờm trọc che lấp thanh khiếu: Nặng đầu, da mặt vàng bủng, phù thủng, mệt · mỏi, ngủ mê mệt, thở khò khè, nói năng lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, vui buồn lẫn lộn, không chú ý đến sự hiện diện của người khác, khạc nhổ đờm, bụng đầy trướng. Nặng hơn thì mất cảm giác, không thể tự làm những công việcTRANG 3 của riêng mình (ăn uống, tiêu tiểu...), lưỡi nhạt, nhờn, mạch Hoạt, Nhu.

ĐIỀU TRỊ: Kiện Tỳ, hoá đờm, tỉnh não, khai khiếu. Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì, Túc tam lý, Phong long, Âm lăng tuyền. (Bá hội, Tứ thần thông, Phong trì làm nhẹ đầu, tỉnh não, khai khiếu; Túc tam lý kiện Tỳ để ngừa thấp trọc đình trệ; Âm lăng tuyền thấm thấp; Phong long hoá thấp). Đờm ngăn trở thêm Trung quản. Bụng đầy trướng thêm Lương môn, Trung quản; Mệt mỏi không có sức thêm Túc tam lý; Ngủ nhiều thêm Tam gian; Nói khó, nói lẫn lộn thêm Thông lý; Vui buồn thất thường thêm Thần môn, Ẩn bạch.

ĐIỀU DƯỠNG Hướng dẫn người bệnh tập luyện để giữ càng lâu càng tốt những hoạt động tối · thiểu trong đời sống hàng ngày như dùng gậy khi di chuyển, cầm đũa, muống... Các chuyên viên về thần kinh đều thống nhất là bệnh nhân Alzheimer không mất · hoàn toàn khả năng hiểu biết, vì vậy việc tập luyện ở người cao tuổi để kích thích trí tuệ rất quan trọng.


Đức Minh

Xin cầu chúc tất cả các bạn có tâm tu luyện được thành công

ĐẠO THÁNH ĐẤT VIỆT LÀ MỘT TÔN GIÁO ĐỘC LẬP - Hiệu quả độc nhất vô nhị về phát triển kinh tế, và phục chế giới tính

Từ xưa đến nay đạo Thánh đất Việt tồn tại và phát triển song hành cùng với bề dầy lịch sử của nước Việt do dân gian quy tập.

Đạo Thánh giáo dục con người sống và làm việc noi theo những tấm gương mẫu mực đại diện bằng một số ngôi vị được nhân gian kính trọng khâm phục, về bản chất đạo đức, đại diện cho những mẫu người mang tính cách và căn cơ cao đẹp, gánh nặng trọng trách với đạo và đời. đặc trưng cho hệ thống quyền lực trong thế giới tâm linh con người đất Việt, theo giáo lý của đạo Thánh.

Đạo Thánh giáo dục con người bằng sức mạnh quyền lực của cõi tâm linh đất Việt, theo giáo lý, chiết lý, đạo lý về tư tưởngThánh thiện.

Từ việc giáo dục tư tưởng con người Thánh thiện, đạo Thánh đã chi phối đến sự sống của con người về mọi mặt, bằng sự báo ứng, linh ứng từ tâm linh Thánh đạo đến tinh thần và thể xác con người, đã tồn tại và phát triển từ thời vua Hùng đến ngày nay. ( Căn cứ theo di tích lịch sử đền vua cha Bát Hải, tại tỉnh Thái Bình ).

Giáo lý, chiết lý, Đạo lý về sự Thánh thiện trong tư tưởng cá nhân từng con người dẫn đến hành động, để rồi những con người đó hưởng kết quả do những hành động việc làm báo ứng. luôn nằm trong tầm kiểm soát của cán cân tâm linh đạo Thánh đất Việt, chủ quản linh ứng tới sự sống con người những phúc hoạ, May dủi, cơ duyên, nghiệp báo, ứng nghiệm vào bất cứ một ai là người Việt. Hay vì một duyên phận nào đó từ gốc Việt mà ảnh hưởng chi phối đến họ bằng sức mạnh tâm linh của đạo Thánh.

Đạo Thánh tôn thờ hệ thống quyền lực của tâm linh người Việt nói riêng và nhân loại nói chung, trong lãnh địa của tôn giáo đất Việt.

Chuẩn Mực là những ngôi vị Thánh được nhân gian quy tập và xây dựng, quy chuẩn đạo đức, làm thần tượng cao đẹp của của con người theo hình mẫu của những ngôi vị Thánh được trăm họ suy tôn phụng thờ từ sưa đến nay. Và nhờ vào tâm linh của những vị Thánh là hình mẫu chuẩn mựcvề đạo đức con người đó, đã phát sinh, phát triển đạo giáo, bằng sự đồng dạng bóng hình của những vị Thánh trong đạo, được nhân rộng ra bằng tâm linh bóng thánh ở môi trường tâm linh trăm họ đất Việt.

Chú thích:

( linh hồn của vị thánh trong đạo thì chỉ có một, nhưng linh hồn hình bóng trùng lập với vị Thánh đó ở tâm linh trăm họ thì nhiều vô số kể, theo suốt lịch sử phát triển tồn tại của đạo ). Và những người hầu bóng Thánh thực tế là hầu những linh hồn hình bóng của vị Thánh có cơ duyên dính díu tới người trần gian theo hệ gia tộc, hay tương tự mà thôi. chứ không phải là được hầu trực tiếp linh hồn của vị Thánh mà nhân gian tôn kính.

Việc hầu bóng Thánh là văn hoá tâm linh cổ truyền của đất Việt, là hình thức người trần gian sử dụng nghi lễ để chiêu dụ thỉnh mời linh hồn của những người đã khuất mang tư tưởng và bản chất Thánh thiện đồng dạng bóng hình với những vị Thánh được trăm họ suy tôn, trợ giúp, phù độ người trần gian có căn cơ số phận hầu bóng Thánh để trước là độ thân, sau là giúp đời cứu người bằng tâm linh của Thánh đạo theo giáo lý, chiết lý, đạo lý Thánh thiện. Giúp những cá nhân, gia đình và xã hội nhân gian được hưởng sự cao đẹp phúc thiện tốt lành của tư tưởng đạo đức thánh thiện.

( là giáo pháp của đạo Thánh: văn hoá chính Thống của đất Việt ).

Những người có tâm tính bất ổn, gây hoạ hại cho chính mình và xã hội, thường cầu cúng và hầu bóng Thánh để nhờ vào tâm linh đạo Thánh mà tâm tính bình ổn tốt đẹp hơn, tránh được những hoạ hại, nghinh đón được những phúc lành từ tâm linh của đạo Thánh ban phát, do chăm cầu cúng lễ bái, mà đượcThánh giúp cho đời được toại ý sởcầu.

Đạo Thánh đất Việt xuất phát từ nhu cầu tâm linh của con người bản địa. Là nền văn hoá chính thống do người việt sáng lập và quy tập từ cổ sưa lưu truyền đến ngày nay.

Đạo Thánh đất Việt cũng có giáo lý giáo Pháp như những tôn giáo lớn khác trên thế giới như đạo Phật và đạo Thiên chúa. Nhưng cái khác là ở chỗ, Đạo Thánh không giáo hoá bằng văn tự, mà phát dương giáo lý, chiết lý, đạo lý Thánh thiện bằng sự báo ứng từ tâm linh của Thánh đạo đến con người nhân gian.

Đạo Thánh sử dụng sự báo ứng từ tâm linh con người đến người trần gian để giáo dục, dẫn giắt con người đến tư tưởng Thánh thiện theo đúng giáo pháp của đạo, một cách đơn giản và dễ hiểu bẳng hình thức học tập noi gương.

Những môn đồ của đạo Thánh đã được tâm linh của Thánh đạo giáo hoá bằng hình thức báo ứng, thường không bao giờ có thể sao nhãng lãng quên đạo lý thánh thiện trong tư tưởng con người, bởi sự báo ứng, linh ứng nhiệm mầu của đạo:

( làm phúc thì hưởng phúc, ác giả thì ác báo ).

Bất cứ một ai mà thừa hưởng tâm linh của đạo Thánh mà mang tư tưởng bất Thánh thiện, thì ắt sẽ gặp báo ứng hoạ hại tức thì không thể tránh được trước cán cân công lý từ tâm linh đạo Thánh. Khiến trăm họ nhân gian đất Việt khiếp sợ thứ quyền lực tâm linh là cán cân công lý của đạo Thánh này, báo ứng đến con người nhân gian cũng như những linh hồn ở cõi âm.

Những người thừa hưởng tâm linh của đạo Thánh ai cũng hiểu cần phải sống và làm việc Thánh thiện ra sao học theo những tấm gương bựcThánh được trăm họ suy tôn. Nếu không muốn khốn khổ vì bị báo ứng, trả giá, vì đi ngược giáo lý Thánh thiện của tâm linh tôn giáo đất Việt.

Từ trước đến nay bất cứ một ai là người Việt khi nói đến đạo Thánh, đều ngầm hiểu về bản chất tâm linh tôn giáo Thánh thiện. Nhưng để phân tích lý giải về giáo lý, chiết lý, đạo lý Thánh thiện của đạo Thánh, thì không mấy ai muốn đưa ra để chứng minh, thuyết phục đại chúng.

Nay Đức Minh phân tích đưa ra chiết lý, đạo lý, giáo lý của đạo Thánh, chẳng qua chỉ là để chứng minh trước trăm họ rằng: người Việt hoàn toàn có tôn giáo độc lập, chứ không phải đạo Thánh chỉ được đánh giá ở mức là tập tục và nghi lễ thờ cúng, ca múa diễn Sướng tâm linh mà thôi.

Bất cứ một ai là người Việt, hướng về tâm linh cổ truyền Thánh thiện này bằng một hình thức nào đó, đều được hưởng những linh ứng hữu hiệu thiện lành, báo ứng tâm linh phúc thiện từ tiên tổ giống nòi.


Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông

http://thanhocphuongdong.com

PHÁC ĐỒ DƯỠNG SINH ĐIỀU TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG






Bệnh tiểu đường là căn bệnh do chức năng tuyến tụy hoạt động bất thường, tâm thận sai lệch. Dẫn đến tình trạng sản sinh ra insulin cần thiết theo chuẩn mực bị sai lệch, khiến cơ địa luôn ở trạng thái mệt mỏi, sự đề kháng của các cơ quan tạng phủ suy giảm. Là nguyên nhân của các loại bệnh tật phát triển phá hủy cơ thể người bệnh.

Để chữa trị bệnh tiểu đường theo phác đồ điều trị bằng hình thức dưỡng sinh chữa bệnh, thì người bệnh cần luyện tập phương pháp tự hiệu chỉnh hệ thần kinh của bản thân bằng hệ tư tưởng.

Ở những bộ môn dưỡng sinh chữa bệnh cổ truyền thì người tu luyện thường chỉ có khả năng kích thích hiệu chỉnh được sự hoạt động, cũng như điều tiết năng lượng ở dòng chảy trong cơ thể hội nhập từ vũ trụ theo lý thuyết của Y học Phương Đông bằng hệ kinh mạch.

Nhưng để chữa bệnh tiểu đường thì sử dụng hệ kinh mạch để chữa bệnh là chưa đủ. Mà cần phải điều tiết được cả các tuyến trên cơ địa, mới mong có hiệu quả trong điều trị bệnh tiểu đường.

Theo lý thuyết của y học Phương Đông thì các mạch trên cơ thể được ví như dòng sông, các kinh được ví như dòng suối, các tuyến được ví như ao hồ dung chứa điều tiết năng lượng từ kinh mạch thẩm thấu tác động vào các cơ quan tạng phủ, để nuôi dưỡng từng tế bào mô cơ, của từng cơ quan trên cơ địa con người.

Người tu luyện dưỡng sinh chữa bệnh theo những phương pháp cổ truyền, thường hiệu chỉnh điều tiết chỉ đạo được hoạt động của hệ kinh mạch trên cơ thể bản thân đã là đạt tới đẳng cấp thượng thừa rồi. Còn để làm chủ điều khiển được hoạt động của các tuyến trên cơ địa như tuyến thượng thận, tuyến tụy, để chữa bệnh tiêủ đường thì không mấy ai đạt được tới cảnh giới đó, bằng những phương pháp dưỡng sinh cổ truyền.

Nhưng đối với ngành Thần học thì việc làm chủ toàn bộ kỳ kinh bát mạch cũng như các tuyến trên cơ thể con người như tuyến thượng thận, tuyến tụy, thực tế rất đơn giản, và hiệu quả cao trong điều trị.

Bởi ở bộ môn Thần Học, việc kích thích hoạt động cũng như điều tiết hiệu chỉnh hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng của con người, hoàn toàn sử dụng pháp thuật. ( Dụng thần kích thích hiệu chỉnh hệ thần kinh để chữa bệnh ), nên việc cân bằng lại tâm thận, hiệu chỉnh lại chức năng hoạt động của tuyến tụy, tuyến thượng thận, cùng những kinh mạch và các huyệt đạo trên cơ thể con người theo chu kỳ hoạt động chuẩn mực, thực rất đơn giản và hiệu quả .

Phác đồ điều trị bệnh tiểu đường đối với người bệnh, thường được thiết lập tùy theo tình trạng thực tại của từng cơ địa bệnh nhân.

Nhưng việc cân bằng âm dương trên cơ thể và hiệu chỉnh lại tâm thận, hiệu chỉnh lại cấp độ khai mở của huyệt hàn hội âm và hỏa hội âm, khai thông và kích thích mạch nhâm đốc, kinh bàng quang, kinh thận, kinh can, kinh tiểu trường, cùng những huyệt như bách hội, huyệt thận du, can du, thì bắt buộc cần phải điều chỉnh. Lượng hỏa khí trên cơ địa quá dư thừa cần phải được tống ra ngoài.

Lưu Ý :

Từ thượng cổ lưu truyền thì cổ nhân chỉ đề cập đến huyệt Hội Âm. Còn việc phân nó ra làm hai,( một là hoả, hai là hàn.) Là do Đức Minh đã phát hiện khi tu thiền, rồi đặt tên riêng cho huyệt, và thêm hai huyệt này vào hệ thống tên các huyệt đạo trên cơ địa con người, bổ xung thêm vào kho tàng kiến thức y học phương Đông .


Để chữa được bệnh tiểu đường bằng phương pháp Thần Học - dưỡng sinh chữa bệnh. Bắt buộc người bệnh cần phải có kiến thức và hệ tư tưởng cân bằng, nhất âm nhất dương mới thành đạo. Cần phải có đức tin về cả duy vật lẫn duy tâm mới được.

Bởi bệnh tiểu đường hiện đến giờ phút này, y học hiện đại cũng như y học cổ truyền, vẫn chưa chữa khỏi triệt để được bệnh này, ( bệnh nan y - căn bệnh của số phận định mệnh - thiên định ). Trừ phương pháp dưỡng sinh chữa bệnh bằng Thần học Phương Đông, mới có khả năng chữa khỏi bệnh một cách triệt để.




TỤY


(còn gọi là lá mía) là một cơ quan nằm sau phúc mạc đảm trách hai chức năng chính:

Chức năng ngoại tiết: tụy sản xuất và bài tiết các dịch tụy chứa các men tiêu hóa, hay enzymetiêu hóa

Chức năng nội tiết: tụy sản xuất và tiết vào trong máu các nội tiết tốhay hormon.

Tụy đôi khi bị nhầm lẫn với tỳ(lá lách). Tên tiếng Anh của tụy là pancreas, còn của tỳ là spleen.

Giải phẫu : 

Tụy là một cơ quan sau phúc mạc, nằm sau dạ dàysát thành sau của ổ bụng. Tụy nặng khoảng 80 gram, có màu trắng nhạt, một số loài có tụy màu hồng nhạt và mỗi ngày, trung bình tụy có thể tiết ra 0,8 lít dịch tiết.

Ở các loài động vât khác nhau thì tụy có hình dạng khác nhau. Như ở cá, tụy không có hình dạng nhất định, chỉ là một khối nhão. Đến loài ếch nhái và bò sát thì tụy đã thành tuyến nằm ép sát bên thành tá tràng. Đến lớp chim thì tụy nằm ở phần giữa đoạn cong vòng của tá tràng chim. Ở người, tụy là một cơ quan nhỏ và hơi thuôn dài nằm trong ổ bụng.

Tụy gồm có ba phần: đầu tụy, đuôi tụy và thân tụy. Đầu tụy nằm sát đoạn tá tràngD2 và đuôi tụy kéo dài đến sát lách. Ống tụy còn gọi là ống Wirsung là một ống nằm dọc suốt chiều dài của tụy và dẫn lưu dịch tụy đổ vào đoạn D2 của tá tràng. Chỗ ống tụy nối vào tá tràng gọi là bóng Vater. ?ng mật chủthường kết hợp với ống tụy tại hoặc gần bóng Vater. Theo một số tài liệu, nơi đổ ra của ống tụy và ống túi mật là cùng một nơi nên vị trí đó gọi là cơ vòng Oddi.

Tụy được cung cấp máu bởi các Động mạch tá tụy, các động mạch này là nhánh của Động mạch mạc treo tràng trên. Máu tĩnh mạch đổ về các tĩnh mạch láchrồi đổ vào tĩnh mạch cửa. Tĩnh mạch lách chạy sát sau tuyến tụy nhưng không dẫn lưu máu của tụy. Tĩnh mạch cửađược hợp thành bởi hợp thành của hai tĩnh mạch là tĩnh mạch mạc treo tràng trênvà tĩnh mạch lách. Ở một số người thì tĩnh mạch mạc treo tràng dướicũng đổ vào tĩnh mạch láchở phía sau tuyến tụy. Trong đa số trường hợp tĩnh mạch này đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên.

Chức Năng :

Tuyến tụy sản xuất các men tiêu hóa có khả năng tiêu hóa gần như tất cả các thành phần thức ăn.

Tụy ngoại tiết

Tụy được bao bọc bởi bao tụy. Bao tụy cũng có tác dụng phân chia tụy thành các tiểu thùy. Nhu mô của tụy được cấu tạo bởi các tế bàotụy ngoại tiết. Các tế bào này chứa đựng rất nhiều các hạt nhỏ chứa enzyme tiêu hóa dưới dạng tiền chất (chủ yếu là trypsinogen, chymotrysinogenlipase tụyvà amylase).


Khi có kích thích thích hợp, các men tụy sẽ được tiết vào ống tụy và sau đó đổ vào ruột non ở đoạn D2 của tá tràng. Tai đây các men enterokinase của tá tràng sẽ xúc tác làm trypsinogenbiến thành dạng hoạt động là trypsin. Trypsin là một endopeptidase lại cắt các amino acid của chymotrypsinogen thành dạnh hoạt động chymotrypsin. Men này lại cắt các polypeptidetrong thức ăn thành các đơn vị nhỏ có thể hấp thu được qua niêm mạc ruột. Việc tụy chỉ tiết các men dưới dạng tiền chất hay dạng không hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng vì các men hoạt động có khả năng tiêu hủy proteincủa chính tuyến tụy.

Dịch tụy là nguồn chứa các men tiêu hóa mỡ và protein còn niêm mạc ruột lại có các men tiêu hóa được đường. Dịch tụy cũng chứa các ion bicarbonate có tính kiềm để trung hòa lượng dịch lượng acid trong thức ăn từ dạ dày đi xuống. Việc kiểm soát chức năng ngoại tiết của tụy được thực hiên thông qua các men (enzyme) như gastrin, cholecystokininvà secretin. Các men này đươch các tế bào của dạ dàyvà tá tràngtiết ra dưới kích thích của thức ăn hiện diện trong ống tiêu hóa và bởi chính dịch tụy.

Thông thường để đảm bảo cấu trúc cũng như chức năng ngoại tiết bình thường của tụy thì các men được tiết ra dưới dạng tiền chất, nghĩa là chưa có khả năng tiêu hủy protein và mỡ. Tuy nhiên vì một lý do nào đó như sự ứ trệ, nhiễm trùng, chấn thương..., các men này lại được hoạt hóa ngay trong lòng tụy gây nên sự tự tiêu hủy tụy. Trên lâm sàng có thể gặp tình trạng viêm tụy cấp do sỏi, do giun chui ống mật - tụy...

Tụy nội tiết

Nằm trong nhu mô của tụy ngoại tiết là các nhóm nhỏ tế bào gọi là tiểu đảo tụyhay tiểu đảo Langerhans. Các tiểu đảo này là phần nội tiết của tuyến tụy có chức năng tiết các hormonequan trọng là insulin, glucagon, và các hormone khác. Các tiểu đảo tụychứa ba loại tế bào chính là: tế bào alpha, tế bào beta, và tế bào delta. Trong ba loại này thì tế bào betachiếm số lượng nhiều nhất và sản xuất insulin. Các tế bào alpha sản xuất glucagon và tế bào deltasản xuất somatostatin. Somatostatin có tác dụng làm giảm nồng độ của glucagon và insulin trong máu.

Tuyến tụy nội tiết: là một phần của tuyến tụy, bao gồm một số tế bàohợp thành và chỉ chiếm một phần nhỏ khối lượng tuyến tụy.

Tuyến tụy nội tiết tiết ra các hormon: Glucagon, Insulin, Lipocain.

Insulin có tác dụng làm giảm đường huyết. Nếu thiếu sẽ gây rối loạn trao đổi Gluxit, làm tăng đường huyết, gây bệnh đái đường.

Glucagoncó tác dụng làm tăng Đường huyết, tăng cường phân giải glycogen thành glucose.

Lipocaincó tác dụng oxy hóacác chất đặc biệt là axit béo. Nếu nhiều mỡ được đưa về gan, không được oxy hóa, tích tụ gây nhiễm mỡ gan.



 BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG

Bệnh đái tháo đường, còn gọi là Bệnh tiểu đường, là một bệnh do rối loạn chuyển hóa cacbohydrat khi hóc môn isulin của tụy bị thiếu hay giảm tác động trong cơ thể, biểu hiện bằng mức đường trong máu luôn cao; trong giai đoạn mới phát thường làm bệnh nhân đi tiểu nhiều, tiểu ban đêm và do đó làm khát nước. Bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân chính của nhiều bệnh hiểm nghèo, điển hình là bệnh tim mạch vành, tai biến mạch máu não, mù mắt, suy thận, liệt dương, hoại thư, v.v.


 
Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông

http://thanhocphuongdong.com

PHÁC ĐỒ DƯỠNG SINH - CHỮA BỆNH NHƯỢC THỊ - CẬN THỊ

Theo quan niệm của nghành dưỡng sinh chữa bệnh thì tình trạng kém tuần hoàn khí huyết, và hệ sóng điện chỉ đạo cơ năng mắt kém hiệu quả, dẫn đến chức năng mắt bị suy dảm, bị sai lệc.


Để chữa những bệnh này thực tế không khó với nghành dưỡng sinh, nhưng đối với y học hiện đại đương thời thì chữa bệnh nhược thị là cả một bai toán khó.

Có hai cách tập luyện dưỡng sinh chữa bệnh nhược thị và cận thị.

1 - Tự tập luyện bằng cách quán tưởng để hội nhập năng lượng sinh học vào vùng bệnh.
2 - Sử dụng sức mạnh tâm linh ( thần học ) để hiệu triệu năng lượng chữa bệnh.

Trong hai cách này thì cách sử dụng tâm linh ( tu luyện Thần Học dưỡng sinh chữa bệnh ) có hiệu quả hơn, nhàn thân hơn, và ít bị tái bệnh trở lại. Còn việc tự tập luyện hiệu quả tác dụng cũng cao, nhưng người bệnh không chịu khó tập luyện thường ngày là bị tái bệnh trở lại ngay.

Điều đáng quý nhất ở tu luyện Thần Học dưỡng sinh chữa bệnh là :

Giúp con người thấu hiểu nguồn gốc phát bệnh từ vấn đề tâm linh - báo ứng nhân quả do tâm đức - nghiệp báo từ tâm linh - di truyền của giống nòi tiên tổ , mà tránh được họa hại trong đường đời .


LUYỆN TẬP DƯỠNG SINH CHỮA BỆNH :


NHƯỢC THỊ - CẬN THỊ
( Bằng Năng lượng sinh học )


1 - Vô thức vứt bỏ mọi tạp nhiễm trong đầu với sự cương quyết như xua đuổi kẻ thù, khi nào thấy đầu mình rỗng không là được.

2 - Hãy tưởng tượng trên đỉnh đầu mình là ánh sáng, (ánh sáng nóng ấm của mặt trời ) và ánh sáng đó dót vào đỉnh đầu mình như hình một cái phễu với tốc độ vòng soáy ngược kim đồng hồ càng nhanh càng có tác dụng truy cập năng lượng vào cơ thể.



Khi năng lượng từ vũ trụ đã vào được đầu, và đầu đã có cảm giác căng nặng lên, thì hãy dùng hệ tư tưởng giắt luồng năng lượng đó toả đều xuống cơ thể. Cùng một lúc người tập vừa truy cập năng lượng vào cơ thể, vừa dắt năng lượng toả đều suống toàn bộ cơ thể một cách nhịp nhàng. Phương thức này là điều tiết tổng thể toàn bộ hệ tuần hoàn khí huyết trên cơ thể để làm bước đệm cho việc truy cập năng lượng trực tiếp vào hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng mắt, cũng như tuần hoàn khí huyết của mắt. khi nào năng lượng tràn khắp cơ thể thì bắt đầu bước kế tiếp.

3 – hãy nhắm mắt và tưởng tượng trước mặt là ánh sáng. Hãy dùng tư tưởng hút ánh sáng đó vào hai mắt đến khi nào năng lượng chạy suyên não bộ tới ngọc chẩm ( vùng sương chẩm sau gáy ) thì dắt luồng năng lượng đó vòng ngược theo vỏ não theo phía đỉnh đầu và quay trở lại hai mắt rồi xả năng lượng đó ra ngoài, cứ thế và cứ thế khoảng độ 30 đến 45 phút thì từ từ mở mắt ra. người tập sẽ thấy mình nhìn mọi vật rõ hơn trước được một chút.

Người tập luyện kiên trì mỗi ngày hai lần một sớm một tối thì mắt sẽ dần dần hồi phục. Người đeo kính số 2 thì khoảng hai tháng bỏ được kính, đeo kính số 3 thì khoảng 3 tháng bỏ được kính. Trong khi luyện tập thì đeo tụt số kính theo sự gia tăng thị lực của mắt đến khi thị lực hoàn toàn hồi phục, thì vẫn phải tập dưỡng sinh để không bị tái bệnh trở lại. Với phương thức tập luyện này rất có hiệu quả với bệnh nhược thị, và đối với cận thị thì cũng hiệu quả không kém.







PHÁP TU LUYỆN :


THẦN HỌC DƯỠNG SINH CHỮA BỆNH
NHƯỢC THỊ - CẬN THỊ


1 - Vô thức vứt bỏ mọi tạp nhiễm trong đầu với sự cương quyết như xua đuổi kẻ thù, khi nào thấy đầu mình rỗng không là được.

2 - Cầu tới gia tiên tiền tổ bà cô ông mãnh nội ngoại của mình ủng hộ cho mình tu luyện thần học dưỡng sinh chữa bệnh.

3 - niệm thần chú :

( Nam mô cổ Phật Ngọc Đế Đại thiên tôn A – Di - Đà - Phật ) 3 lần.

4 - Ước nguyện:

Con xin vua cha Ngọc Hoàng Thượng Đế hãy ban cho con năng lượng của ngài để dưỡng sinh chữa bệnh, phục hồi chức năng đôi mắt của con trở lại bình thường.

5 – Đón nhận năng lượng:

Người tập hãy chờ đợi đón nhận năng lượng bằng sự khao khát một cách thụ động, và mặc kệ cho năng lượng chạy vào cơ địa của mình. Đến khi nào thấy năng lượng chạy vào đầu và chạy dọc cột sống dần dần toả đều ra toàn bộ cơ thể, hai mắt thấy căng lên và hơi dung dật nhẹ, năng lượng chạy vào não bộ xuyên ra ngọc chẩm rồi tự vòng lại hai mắt và xả ra thì đó mới thực là thành công trong pháp luyện thần học dưỡng sinh chữa mắt này.

Tư thế tập không bắt buộc, miễn ngồi nằm ra sao không để hệ thần kinh trên cơ thể bị chèn ép là được, tốt nhất hãy ước nguyện khi mình bắt đầu lên giường nằm ngủ, thế thì năng lượng sẽ hội nhập trong toàn bộ giấc ngủ, hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều bởi số lượng thời gian.

Còn nếu mình ngồi tập mà muốn ngừng lại, thì chỉ cần ước nguyện xin vua cha Ngọc Đế thu phép lại, là dừng lại thức thì.

Thường thì không quá 3 phút sau khi ước nguyện là người tập đã cảm nhận thấy năng lượng được truy cập vào cơ thể bằng sức mạnh tâm linh. Còn nếu không, thì là phép không ứng, người tu luyện cần củng cố lại đức tin hơn nữa.

Lưu Ý :

Người sử dụng thần học để dưỡng sinh chữa bệnh không cần kiêng khem bất cứ đồ ăn thức uống gì mang tính tối kỵ như các bộ môn tu luyện khác, duy nhất là kiêng làm điều thiếu đạo đức, ăn ở nên thiện lành, bởi sự linh nhiệm báo ứng của Thần Học luôn theo sát người tu luyện.

Ngoài ra người tu luyện Thần Học thành công, còn gặp rất nhiều điều may mắn tốt đẹp trong cuộc sồng và đường đời.

Chúc các bạn tu luyện thành công pháp môn Thần Học này

Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông

http://thanhocphuongdong.com

BÀI TẬP DƯỠNG SINH HỆ HÔ HẤP

BÀI TẬP DƯỠNG SINH HỆ HÔ HẤP
Chữa những bệnh viêm nhiễm
hệ hô hấp mãn tính:
Viêm họng - Viêm Phổi - Viêm phế quản

Thông thì bất thống, đó là nguyên lý đơn giản và dễ hiểu theo quan niệm về tuần hoàn khí huyết trên cơ thể con người.

Những nơi khí huyết kém hoặc không lưu thông, lâu ngày sinh ra viêm nhiễm mãn tính ở những cơ quan bộ vị như hệ hô hấp của cơ địa con người. Với y học hiện tại, những bệnh viêm nhiễm hệ hô hấp, theo tây y thì thường là sử dụng những loại thuốc kháng sinh để diệt vi khuẩn gây viêm nhiễm. Nhưng những bệnh mãn tính về hệ hô hấp là tình trạng khí huyết nơi vùng bệnh đó không lưu thông. thuốc kháng sinh không vào tới vùng bệnh của cơ địa con người để diệt vi khuẩn. hặc có vào tới vùng bệnh nhờ tác đọng của những loại thuốc kháng viêm thì hiệu quả cũng không được cao. Và khi dứt thuốc thì bệnh lại tái trở lại ngay tức khắc nên mới sinh ra thứ bệnh mãn tính. Việc khí huyết kém hoặc không tuần hoàn lưu thông trên cơ thể con người theo quan niệm về đông y là do âm dương trên cơ thể mất cân bằng, khiến hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng làm việc sai lệch mất bình thường, mới dẫn đến việc khí huyết ở một cơ quan nào đó trên cơ địa con người bị ứ trệ bế tắc. Nguyên nhân dẫn đến những bệnh mãn tính ở hệ hô hấp cơ địa con người từ sự chỉ đạo cơ năng của hệ thần kinh sai lệc, một phần chính là do sóng điện từ trường từ vũ trụ tác động đến hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng cơ địa con người khiến hệ thần kinh đó kém hoạt động kích thích tuần hoàn khí huyết. Trong lý thuyết của nghành dưỡng sinh chữa bệnh cổ truyền thì nguyên lý như sau: Tâm dẫn thần, thần dẫn khí, khí giắt huyết. Và theo nguyên ý chỉ đạo cơ năng trên cơ địa con người theo y học cổ truyền Phương đông, thì toàn bộ hệ thần kinh trên cơ thể con người chịu sự chỉ đạo của trung ương não. Mà âm dương trên cơ địa người đàn ông thì chịu sự chi phối của tâm thận.

( Người đàn ông thận làm chủ, người đàn bà huyết làm chủ )

Bài tập Đức Minh đưa ra đây không có tác dụng cân bằng cái gốc của âm dương trên cơ địa con người, không có tác dụng cân bằng âm dương của tâm thận, bởi tâm thận chụi sự hi phối của tâm thần con người. Bài tập này chỉ có tác dụng trực tiếp đén tuần hoàn khí huyết ở hệ hô hấp con người. giúp người bệnh bị mãn tính ở hệ hô hấp chữa trị khỏi hoàn toàn được căn bệnh nhờ khí huyết ở vùng bệnh được lưu thông. Thuốc kháng sinh do uống hay tiêm theo đường máu vào tới vùng bệnh tiêu diệt được toàn bộ vi khuẩn mà bình thuờng người không luyện tập phương pháp này không thể chữa khỏi dứt điểm được căn bệnh viêm nhiễm hệ hô hấp mãn tính.

PHƯƠNG PHÁP TẬP LUYỆN

Để tập luyện phương pháp này, người tập phải biết thiền định, phải vô thức khi tập hiệu quả mới cao. Để vô thức được một cách nhanh nhất, người tập phải dứt bỏ, xua đuổi mọi dòng tư tưởng một cách cương quyết như xua điổi kẻ thù. Khi người tập vô thức được thì sẽ thấy đầu mình rỗng không, tất cả mọi thứ xung quanh xảy ra ta vẫn có thể thận thức được nhưng không lưu dữ trú tâm vào những việc đó. Mà tư tưởng luôn ở trạng thái rỗng không. Sau khi vô thức thì người tập hít thật sâu vào lồng ngực và nén khí đó lại, phân ra một nửa thở ra ngoài đằng mũi một cách nhẹ nhàng từ từ, nửa còn lại thì dùng hệ tư tưởng dẫn dắt khí đó thở ra qua hệ tế bào mô nang phổi, rồi thẩm thấu ra ngoài cơ thể qua lồng ngực và sau lưu, qua cổ, và cả phần gáy lẫn phía trước yết hầu. Khi hít vào và nén khí lại thì ngửa cổ ra đằng sau để phần họng dãn ra. Và khi ngửa cổ ra như vậy thì người tập dừng hệ tư tưởng dắt khí chạy ngược lên phần họng toả đều ra tứ phía đẩy khí đó ra ngoài. Tư thế ngồi tập thì không bó buộc, nhưng tốt nhất là ngồi bán kiết già, bởi ngồi tư thế đó thì thích hợp cho luyện tập. Mỗi lần tập thì hít thở khoảng ba đến năm lần, và dần dần người tập thở ra đằng mũi ít đi và thở ra bằng hệ tế bào nhiều lên. Và tầng cuối cùng của pháp tu luyện này là, hít vào bằng mũi, và thở ra hoàn toàn bằng hệ tế bào.

Mỗi lần hít vào thở ra như vậy, người tập hơi mệt, cần phải thở điều hoà một lúc rồi mới tập tiếp.

Mỗi buổi tập hít vào thở ra khoảng từ ba đến năm lần, và nếu có thể nhiều hơn thì phụ thuộc theo khả năng thể lực của từng người. Khi người tu luyện thành công bài tập này, thì những bệnh về hệ hô hấp sẽ hoàn toàn triệt tiêu. Không thể tái trở lại, nếu tu luyện tập đều hàng ngày. người mắc những bệnh viêm nhiễm hệ hô hấp mãn tính sẽ chữa khỏi oàn toàn bằng bài tập này kể cả không sử sụng thêm thuốc kháng sinh, nhưng nếu kết hợp sử dụng thêm thuốc kháng sinh thì bệnh sẽ nhanh khỏi hơn.


Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông


http://thanhocphuongdong.com

Đức Minh Khí Công

Lời nói đầu:

Đức Minh qua sự học hỏi tu luyện từ trước đến nay với sự trải nghiệm đúc kết về những bộ môn như khí công dưỡng sinh, yoga, nhân điện năng lượng sinh học. Để đưa ra được phương pháp Khí Công dưỡng sinh chữa bệnh riêng của Đức Minh.

Để những người tu luyện những bộ môn dưỡng sinh chữa bệnh được an toàn tiện lợi, và đạt được hiệu quả cao trong phép dưỡng sinh chữa bệnh. Giúp những người có cơ duyên với nghành tu luyện thiền dưỡng sinh chữa bệnh có cơ hội tự chữa bệnh cho mình bằng những phương pháp tu luyện.

Những người bị bệnh có thể cậy nhờ y học can thiệp chữa trị bệnh thì chưa nên sử dụng những phương pháp dưỡng sinh tương tự như của Đức Minh đưa ra. Bởi hầu hết tất cả những bộ môn dưỡng sinh chữa bệnh từ thượng cổ đến nay đều có nguồn gốc xuất phát từ tôn giáo đạo giáo. Nói chung người tu luyện những phương pháp dưỡng sinh đều nên có đạo, có tín ngưỡng tâm linh thì việc tu luyện mới hiệu quả cao và có hậu.

Bài mở đầu:

Phương pháp Khí Công Đức Minh xin đưa ra bài nhập môn đầu tiên này, giúp những người tập luyện thu nạp khí vào cơ thể để sử dụng lượng khí đó khai thông và bổ sung sự thiếu hụt khí dẫn đến tuần hoàn khí huyết kém ở các cơ quan tạng phủ trên cơ thể con người.

Một cơ thể con người âm dương cân bằng, dẫn đến khí huyết lưu thông là một cơ thể khoẻ mạnh. Khi một cơ thể mất cân bằng âm dương, khí huyết kém lưu thông dẫn đến bế tắc một hệ thần kinh chỉ đạo cơ năng nào đó thì bệnh tật sẽ phát sinh ở nơi đó. Đó là cái lý rất đơn giản trong đạo tu luyện dưỡng sinh chữa bệnh.

Việc đầu tiên và đơn giản nhất là người bắt đầu bước vào tậo dưỡng sinh chữa bệnh nên tập qua bài nạp khí vào cơ thể qua hơi thở. Sử dụng hơi thở kết hợp với hệ tư tưởng để dung nạp khí từ ngoài vũ trụ vào cơ thể bằng hoạt động của hệ hô hấp.

Khi người hít vào cơ thể cần hít hơi chậm một chút và hít sâu vừa phải và nén khí đó lại thở ra một cách từ từ, và chỉ thở ra 50% lượng khí hít vào, còn lại là hãy dùng tư tưởng để dẫn khí đó thầm thấu qua phổi xuống dưới đan điền ( bụng ), và để việc tập trung tư tưởng hoàn toàn vào việc này được thiết lập tốt thì người tu luyện nên dứt bỏ mọi dòng tư tưỏng trong não bộ để đầu óc ở trạng thái thiền vô thức trước khi luyện tập.

Chỉ khi hít thở đến chu kỳ lần thứ ba là người tập đã cảm nhận thấy khí ở đan điền của mình căng lên. Khi khí ở đan điền căng lên vừa đủ với sức người tập thì hãy giắt khí đó từ đan điền chạy theo hệ thống mạch nhâm mạch đốc và chạy tới các kinh lạc trên cơ thể. nếu người không biết nhiều về hệ thống kinh lạc thì cứ thấy cơ thể mình khó chịu nơi đâu thì dắt khí tới nơi đó cũng có hiệu quả tương đối trong việc chữa bệnh.

Mạch nhâm là dọc từ sống mũi xuống hậu môn nối tiếp mạch đốc ở dọc sống lưng lên đỉnh đàu và nối tiếp vào mạch nhâm.

Vòng tuần hoàn khí dắt từ đan điền nên dắt khí chạy theo cách đưa khí từ đan điền ra sao lưng và dắt lên vòng bên trên và vòng bên dưới chia làm hai. Nhưng cuói cùng đều tụ khí ở đan điền.

Vòng bên trên thì đưa khí từ đan điền ra sau lưng và dắt ngược lên đầu vòng ra phía trươc s là mạnh nhâm và dắt về đan điền. vòng bên dưới cũng dắt khí ra cột sống, mạch đốc và dắt xuống dưới vòng qua hậu môn lên đan điền dừng lại.

cứ như vậy chỉ cần người tập tuần hoàn khoảng ba lần trở lên là sẽ thấy hiệu ứng tới cơ thể ngay.


Đức Minh

Pháp chủ trung tâm nghiên cứu
Thần Học Phương Đông